Thứ Ba, 2 tháng 3, 2021

Khái niệm về Cơ sở vật chất

 Cơ sở vật chấ t- kỹ thuật trường học là những hệ thống các phương tiện vật chất và kỹ thuật khác nhau được sử dụng để phục vụ việc giáo dục và đào tạo toàn diện học sinh trong nhà trường. Đó là những đồ vật, những của cải vật chất và khung cảnh tự nhiên xung quanh nhà trường Có thể hiểu khái niệm trên theo hai góc độ: - Cơ sở vật chất - kỹ thuật của xã hội, được nhà trường sử dụng vào mục tiêu đào tạo bao gồm: các trang thiết bị và công cụ của nhà máy xí nghiệp, nhà văn hóa, nhà truyền thống, câu lạc bộ, sân bãi thể dục thể thao của địa phương ... Nhà trường không trực tiếp quản lý và sử dụng, nhưng có thể mượn hoặc thuê để phục vụ cho mục tiêu giáo dục - Cơ sở vật chất - kỹ thuật của nhà trường, đó là các khối công trình, nhà cửa, sân chơi, thư viện, thiết bị giáo dục và các trang thiết bị khác… được trang bị riêng cho nhà trường, và chia ra làm 3 bộ phận: trường sở, thiết bị giáo dục và thư viện. Các bộ phận vừa kể trên hình thành nên hệ thống cơ sở vật chất - kỹ thuật đa dạng về chủng loại và có một số trang thiết bị tương đối phức tạp về mặt kỹ thuật, ví dụ như: phòng LAB, máy tính, máy projector, hệ thống mạng internet... Tính năng đa dạng và phong phú của hệ thống cơ sở vật chất - kỹ thuật tạo ra không ít trở ngại trong quá trình quản lý và sử dụng

Cơ sở vật chất - kỹ thuật có mặt trong quá trình nêu trên có vai trò và vị trí như các thành tố khác và không thể thiếu một thành tố nào. Như vậy, cơ sở vật chất - kỹ thuật là một bộ phận, một thành tố không thể thiếu được trong quá trình giáo dục và dạy học Chủ nghĩa Mác Lênin xem xét lý luận và thực tiễn trong sự thống nhất biện chứng. Thực tiễn là một phạm trù triết học chỉ toàn bộ hoạt động vật chất có tính chất lịch sử - xã hội của con người làm biến đổi tự nhiên và xã hội. Bản chất của hoạt động thực tiễn là sự tác động qua lại giữa chủ thể và khách thể, trong đó chủ thể với tính tích cực của mình, tác động làm biến đổi khách thể. Trong quá trình này không chỉ làm biến đổi khách thể mà còn làm biến đổi ngay bản thân chủ thể. Lý luận với nghĩa chung nhất là sự khái quát những kinh nghiệm thực tiễn, là sự tổng hợp các tri thức về tự nhiện và xã hội đã được tích lũy qua quá trình lịch sử của con người..

Như vậy, lý luận là sản phẩm cao nhất của nhận thức, của sự phản ánh hiện thực khách quan. Tính phổ biến của thực tiễn đối với nhận thức (lý luận) thể hiện ở chỗ thực tiễn là khâu quyết định đối với hoạt động nhận thức (lý luận). Nó không những là nguồn gốc, cơ sở, động lực của nhận thức mà còn là mục đích của nhận thức. Chỉ có thực tiễn mới vật chất hóa được lý luận, đưa lý luận vào đời sống hiện thực và biến thành khách thể vật chất. Chủ nghĩa Mác Lênin cũng khẳng định tính tích cực tác động của lý luận đối với thực tiễn. Những tri thức về bản chất và quy luật của khách thể do lý luận đem lại, có ý nghĩa to lớn trong hoạt động thực tiễn, làm cho thực tiễn vận động đúng quy luật khách quan. Vấn đề này Lênin đã diễn tả một cách khái quát như sau: “Từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng và từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn, đó là con đường biện chứng của sự nhận thức chân lý, của sự nhận thức thực tại khách quan” - Trực quan sinh động nói ở đây, đó là sự phản ánh thực tiếp thực tại khách thể bằng các giác quan và diễn ra dưới những hình thức cơ bản kế tiếp nhau: cảm giác, tri giác và biểu tượng. Đây là giai đoạn đầu của quá trình nhận thức, chúng ta thường gọi là quá trình nhận thức cảm tính. - Giai đoạn tiếp theo cao hơn đó là tư duy trừu tượng với những hình thức kế tiếp nhau: khái niệm, phán đoán và suy luận, chúng ta thường gọi là quá trình nhận thức lý tính. Từ nhận thức luận của Lê nin, những nhà khoa học đã tổng kết được mức độ ảnh hưởng của các giác quan trong quá trình truyền thông dạy học đối với việc tiếp thu tri thức sẽ đạt được các kết quả sau - 1% qua nếm - 1,5% qua sờ - 3,5% qua ngửi - 11% qua nghe - 83% qua nhìn Mặt khác, các nhà kinh tế giáo dục học đã chứng minh hiệu quả của việc giáo dục và đào tạo phụ thuộc một phần quan trọng vào trình độ cơ sở vật chất - kỹ thuật của lao động sư phạm. Hai nhân tố hết sức quan trọng tác động mạnh mẽ đến hiệu quả của giáo dục và đào tạo là trình độ, năng lực của giáo viên và trình độ của cơ sở vật chất - kỹ thuật của nhà trường.

Các khối (khu) công trình - Khối học tập - Khối phục vụ học tập - Khối phòng hành chính - Khu sân chơi bãi tập - Khu vệ sinh - Khu để xe Yêu cầu cụ thể cho các khối hoặc các khu như sau

- Phòng thiết bị giáo dục Được thiết kế từ 24m2 đến 40m2 có chức năng sửa chữa, kho chứa và chuẩn bị cho các thí nghiệm thực hành ở các môn học

- Phòng truyền thống Thiết kế cho tất cả các loại trường từ 48m2 đến 72m2

 Khối hành chính – quản trị Gồm: phòng hiệu trưởng, phòng phó hiệu trưởng, văn phòng, phòng giáo viên, phòng y tế học đường, nhà kho, phòng thường trực. Các phòng này phải được trang bị bàn, ghế, tủ, thiết bị làm việc đầy đủ và đúng quy cách.

- Diện tích phòng hiệu trưởng 15m2 đến 18 m2 - Phòng y tế từ 18m2 đến 24m2 - Phòng phó hiệu trưởng, văn phòng trường, phòng thường trực tiếp khách, kho dụng cụ chung và học phẩm có diện tích từ 9m2 đến 12m2

d) Khu sân chơi, bãi tập

- Có diện tích ít nhất bằng 25% tổng diện tích mặt bằng của trường

- Khu sân chơi có vườn hoa, cây xanh bóng mát và đảm bảo vệ sinh

- Khu bãi tập có đủ thiết bị luyện tập thể dục thể thao và đảm bảo an toàn

e) Khu vệ sinh và hệ thống cấp thoát nước

- Khu vệ sinh được bố trí hợp lý theo từng khu làm việc, học tập cho giáo viên và học sinh, có đủ nước, ánh sáng, đảm bảo vệ sinh, không làm ô nhiễm môi trường.

- Có hệ thống cấp nước sạch, hệ thống thoát nước cho tất cả các khu vực theo đúng quy định vệ sinh môi trường.

f) Khu để xe Bố trí hợp lý trong khuôn viên trường, đảm bảo an toàn, trật tự, vệ sinh.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Hướng dẫn chạy SEM cho luận văn